Kỷ niệm 129 năm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng
(20-8-1888 – 20-8-2017):
Bác Tôn- Niềm tự hào của Đảng ta và Nhân dân ta
Trong lời chúc nhân dịp Bác Tôn Đức Thắng nhận Huân chương Sao Vàng, Huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước ta mà Bác vinh dự là người đầu tiên được trao tặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: "Đồng chí Tôn Đức Thắng là một người con rất ưu tú của Tổ quốc, là một tấm gương đạo đức cách mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân".
92 tuổi đời, hơn 70 năm hoạt động cách mạng, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Tên tuổi và sự nghiệp của Người gắn liền với lịch sử cách mạng vẻ vang của Đảng ta, Nhân dân ta.
Bác Tôn Đức Thắng sinh ngày 20-8-1888 trong một gia đình nông dân yêu nước tại cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hòa Hưng, Tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hòa Hưng, TP. Long Xuyên, An Giang). Năm 1906, sau khi học xong bậc sơ học ở Trường tiểu học Long Xuyên, Tôn Đức Thắng rời quê lên Sài Gòn và đến với giai cấp công nhân đang trong quá trình hình thành. Truyền thống quật cường của quê hương đất nước và cuộc sống giai cấp công nhân đã sớm rèn luyện tình yêu nước trong Tôn Đức Thắng. Từ đây, Tôn Đức Thắng đã hòa nhập trong phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp. Năm 1912, đồng chí là hạt nhân lãnh đạo, tổ chức cuộc bãi công của học sinh Trường Bách Nghệ và công nhân Nhà máy đóng tàu Ba Son.

Năm 1919, Tôn Đức Thắng bị điều động tới một đơn vị hải quân được lệnh tiến công Xêvaxtôpôn trên bờ Hắc Hải trấn áp nước Nga Xô Viết mới ra đời. Người thủy thủ Tôn Đức Thắng đã tham gia cuộc phản chiến, kéo cờ đỏ trên chiến hạm France ở biển Đen để ủng hộ và góp phần bảo vệ thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga (là người Việt Nam duy nhất trên chiến hạm đó). Đồng chí còn là người tổ chức, lãnh đạo Công hội bí mật đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam năm 1920 và là một trong những người lãnh đạo chủ chốt cuộc bãi công của công nhân Ba Son năm 1925 - sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển về chất của phong trào công nhân Việt Nam.
Năm 1927, đồng chí gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập, được bầu làm Ủy viên Kỳ bộ Nam Kỳ, trực tiếp lãnh đạo phong trào công nhân Sài Gòn- Chợ Lớn. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tháng 2-1930, đồng chí trở thành đảng viên lớp đầu tiên của Đảng, góp phần quan trọng vào sự phát triển phong trào cách mạng ở Nam Bộ. Suốt 15 năm liên tục bị đày ải ở "địa ngục trần gian" Côn Đảo, sự tàn bạo của nhà tù đế quốc đã không khuất phục được người cộng sản Tôn Đức Thắng. Với lòng trung thành vô hạn lý tưởng cộng sản và ý chí, nghị lực phi thường, cùng với các đồng chí của mình, đồng chí Tôn Đức Thắng đã kiên cường đấu tranh, biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng.

Đồng chí Tôn Đức Thắng đã có những công lao to lớn như: Đã chuyển các hội viên Công hội của mình qua tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội của Nguyễn Ái Quốc, sau đó đã trở thành những đảng viên cộng sản trung kiên. Đã tổ chức Chi bộ đặc biệt đầu tiên của Đảng trong nhà tù Côn Đảo. Đặc biệt, lần đầu tiên tổ chức đường dây liên lạc với Đảng Cộng sản Pháp qua các thủy thủ, để tiếp nhận sách báo mác- xít gửi về đất liền và đưa vào nhà tù cho anh em nghiên cứu học tập; biến nhà tù Côn Đảo thành trường đào tạo cán bộ cách mạng. Hoạt động của Bác Tôn từ năm 1912 đến năm 1925 và lúc ở nhà tù Côn Đảo là tiền đề quan trọng cho quá trình chuẩn bị nhiều năm để giành được chính quyền về tay Nhân dân trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945; có quan hệ đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, mở ra thời kỳ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ngay sau khi được Đảng đón về đất liền, đồng chí đã tiếp tục tham gia vào cuộc kháng chiến của Nhân dân ta chống thực dân Pháp, xây dựng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đồng chí được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao nhiều trọng trách: Phụ trách Ủy ban Kháng chiến kiêm Chỉ huy trưởng Lực lượng vũ trang Nam Bộ (năm 1945), Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội (năm 1946), Phó Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (năm 1946), Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (năm 1951), Trưởng ban Thường trực Quốc hội (năm 1955), Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (năm 1955), Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1960). Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, đồng chí được bầu làm Chủ tịch nước. Trên cương vị người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã cùng toàn Đảng, toàn dân đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Tôn Đức Thắng được bầu là Chủ tịch nước sau ngày thống nhất đất nước. Ngày 30-3-1980, Bác Tôn Đức Thắng từ trần, thọ 92 tuổi.